Phối hợp kháng sinh khi nào?

Nên hay không? Nhiều trường hợp dùng một loại kháng sinh không khỏi bệnh mà phải dùng phối hợp hai, ba loại thuốc khác nhau, người ta cho rằng hai thuốc hơn một. Tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng đúng.

Lợi ích của việc phối hợp kháng sinh

Trên thực tế, nhiều trường hợp dùng một loại kháng sinh không khỏi bệnh mà phải dùng phối hợp hai, ba loại thuốc khác nhau.

Về tác dụng điều trị, cũng có trường hợp hai vị thuốc tốt hơn một vị thuốc. Vì xung quanh chúng ta có rất nhiều vi khuẩn, nhiều chủng loại khác nhau nên có nhiều tác nhân gây bệnh khác nhau có thể gây bệnh trên cùng một cơ quan. Nhưng thực tế là không có một loại thuốc nào toàn diện có thể tiêu diệt cùng lúc các loại vi khuẩn này. Mỗi loại chỉ có một cơ chế hoạt động nhất định, có tác dụng chống lại một số loại tác nhân gây bệnh nhất định. Việc dùng phối hợp thuốc sẽ làm tăng phổ tác dụng chống vi khuẩn có hại.

Ví dụ, bệnh viêm phổi và nhiễm trùng đường hô hấp nói chung thường do tụ cầu và liên cầu gây ra, nhưng cũng có thể do sự hiện diện của vi khuẩn E.coli hoặc Klebsiella. Nếu chúng ta sử dụng kháng sinh beta-lactam, chúng thường rất hiệu quả đối với tụ cầu và liên cầu. Nhưng nếu chúng ta kết hợp với aminoglycosid thì sẽ bao trùm phổ tác dụng lên hệ vi khuẩn đường ruột khi chúng ta chưa có điều kiện xác định vi khuẩn nào gây bệnh.

Xem thêm bài viết hay:  Biện pháp khắc phục chứng khô cổ họng

Hiệu quả của sự kết hợp kháng sinh cũng nằm ở chỗ hai loại thuốc này đôi khi làm tăng hiệu quả của nhau. Một ví dụ điển hình của việc này là sự kết hợp giữa kháng sinh sulphonamide với kháng sinh trimethoprim. Cả hai loại kháng sinh này đều là kháng sinh mới được phát hiện so với kháng sinh “lão làng” như penicillin. Sulfamide có tác dụng ức chế cạnh tranh PABA nên làm giảm quá trình tổng hợp dihydrofolate, một bước quan trọng trong quá trình tổng hợp DNA. Trong khi đó, trimethoprim ức chế dihydrofolate reductase, một loại enzyme phân hủy dihydrofolate. Hai vị thuốc này nếu dùng chung thì hiệu quả tăng gấp 100 lần.

Cần thận trọng khi phối hợp kháng sinh

Tác dụng phụ không ngờ khi phối hợp kháng sinh

Nhược điểm của việc dùng nhiều kháng sinh trong điều trị là dùng nhiều liệu pháp cũng có hại. Việc sử dụng một loại thuốc cũng đã gây tác hại cho người sử dụng, nếu sử dụng đồng thời nhiều loại thuốc thì tất nhiên tác hại sẽ cộng hưởng.

Chẳng hạn, kháng sinh aminoglycoside là nhóm thuốc gây đầy hơi, buồn nôn, nôn. Nếu thêm metronidazol, một loại thuốc gây mệt mỏi, sẽ làm cho bệnh nhân phải chịu đựng gấp đôi những tác dụng không mong muốn này. Rõ ràng việc phối hợp thuốc trong trường hợp này là không tốt và người bệnh khó đi đến cùng một phương pháp điều trị.

Phức tạp hơn là trường hợp phối hợp thuốc mà cơ chế tác dụng của chúng không tương tác với nhau. Một ví dụ là sự kết hợp giữa penicillin và tetracycline để điều trị viêm màng não.

Xem thêm bài viết hay:  Hơ cửa mình sau sinh cho phụ nữ sinh thường

Tetracycline là một loại thuốc ức chế tiểu đơn vị 30S của ribosome trong quá trình tổng hợp protein, nhưng nó bị cản trở bởi penicillin. Vì vậy, chúng ta phải tránh kết hợp hai loại kháng sinh này với nhau.

Khi nào nên phối hợp kháng sinh?

Thông thường, việc sử dụng phác đồ nhiều thuốc chỉ được áp dụng khi bệnh nhân có nguy cơ nhiễm trùng nặng hoặc nhiễm trùng lan rộng chứ chúng ta không thể xác định ngay được vi khuẩn nào gây bệnh. Trong lúc nghi ngờ, người ta có thể đưa ra nhiều phán đoán về loại vi khuẩn gây bệnh.

Do đó, trong trường hợp nhiễm trùng phổi nặng, nên kết hợp kháng sinh nhóm β-lactam như co-amoxiclav, cefuroxime, cefotaxime hoặc ceftriaxone với kháng sinh nhóm macrolide như clarithromycin vì chúng làm tăng tác dụng. lẫn nhau.

Sự kết hợp này có hiệu quả trong cả việc “đánh” các vi khuẩn thông thường của đường hô hấp và cả các vi khuẩn ít điển hình hơn như legionella pneumophila, mycoplasma pneumoniae.

buồn nôn và tiêu chảy

Lạm dụng kháng sinh có thể khiến cơ thể buồn nôn, tiêu chảy

Với nhiễm trùng trong ổ bụng, thường là do đồng nhiễm vi khuẩn hiếu khí và kỵ khí. Vì vậy, người ta thường khuyến cáo sử dụng kháng sinh metronidazol kết hợp với kháng sinh phổ rộng như cefotaxime, gentamicin, ciprofloxacin để bao phủ tất cả các mầm bệnh có thể là nguyên nhân gây bệnh.

Cần lưu ý, nhiễm trùng trong ổ bụng (hay nói chính xác hơn là viêm phúc mạc) là một bệnh nhiễm trùng nặng, nếu không được xử trí tốt có thể dẫn đến tử vong. Đối với các bệnh nhiễm trùng quan trọng như viêm nội tâm mạc, điều trị đa thuốc thường được chỉ định ngay từ đầu. Một ví dụ là sự kết hợp giữa penicillin và gentamicin để điều trị viêm nội tâm mạc do enterococcal. Sự kết hợp này mạnh hơn penicillin đơn độc. Phác đồ này cũng có giá trị khi chúng ta đang điều trị viêm nội tâm mạc do tụ cầu.

Xem thêm bài viết hay:  6 chiêu thức giữ ‘núi đôi’ không xệ

Tác dụng to lớn của việc phối hợp thuốc là chống kháng thuốc, trong đó bệnh lao là một ví dụ sinh động nhất. Khi dùng isoniazid, tỷ lệ lao kháng thuốc là 1/106 và với rifampicin, tỷ lệ kháng thuốc là 1/108 mầm bệnh.

Nhưng khi chúng ta kết hợp chúng lại với nhau, tỷ lệ kháng cự sẽ giảm đi đáng kể. Để hạ thấp tỷ lệ vi khuẩn lao kháng thuốc và điều trị thành công, cần phải có phác đồ 3-4 loại thuốc. Điều này giống như một công thức bất di bất dịch.

Những thông tin cung cấp trong bài của bệnh viện đa khoa Hồng Ngọc chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế cho chẩn đoán hay chữa bệnh.

Theo dõi fanpage trungcapyduoctphcm.edu.vn để biết thêm nhiều thông tin hữu ích: https://www.facebook.com/BenhvienHongNgoc/

Bạn thấy bài viết Phối hợp kháng sinh khi nào? có thoải mãn đươc vấn đề bạn đang tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Phối hợp kháng sinh khi nào? bên dưới để Trung Cấp Y Dược Tại TPHCM có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: trungcapyduoctphcm.edu.vn

Nhớ để nguồn bài viết này: Phối hợp kháng sinh khi nào? của website trungcapyduoctphcm.edu.vn

Chuyên mục: Sống khỏe

Viết một bình luận